Quay lại

Phát triển công nghiệp công nghệ số: Việt Nam cần nhiều chính sách đặc thù

Tuy nhiên, để thúc đẩy và nâng tầm ngành công nghiệp công nghệ số, Việt Nam cần thêm nhiều chính sách đặc thù.

Trong khuôn khổ “Diễn đàn cấp cao thường niên về công nghiệp 4.0 năm 2023 gắn với triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì phối hợp với các Bộ tổ chức ngày 14/6, đã diễn ra hội thảo chuyên đề “Nâng cao năng lực sản xuất thông minh và phát triển ngành công nghiệp công nghệ số theo định hướng Make in Việt Nam”.

Theo báo cáo của tổ chức The Global Market Model (phát hành ngày 11/5/2023), công nghiệp công nghệ số toàn cầu năm 2022 có giá trị thị trường khoảng 7.989,7 tỷ USD, trong đó phân khúc lớn nhất của thị trường là dịch vụ công nghệ thông tin chiếm 40,5%. Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm dự kiến (CAGR) trong giai đoạn 2022–2032 là 8,4%.

Tại Việt Nam, công nghiệp công nghệ số năm 2022 được xem là điểm sáng của nền kinh tế với doanh thu ước đạt 148 tỷ USD, tăng trưởng hơn 10% so với 2021, số lượng doanh nghiệp hơn 70.000 và xuất khẩu của ngành công nghệ số ước đạt 136 tỷ USD (theo số liệu Bộ Thông tin và Truyền thông công bố tại Diễn đàn Make in Vietnam 2022).

LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM

Bà Phan Thị Thanh Ngọc, Giám đốc tư vấn chuyển đổi số, Công ty công nghệ thông tin VNPT-IT, cho biết phát triển công nghiệp công nghệ số của Việt Nam hiện nay đang có nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Cụ thể là mức độ phổ biến ngày càng tăng của công nghệ IoT, sự thâm nhập mạnh mẽ của thương mại điện tử, hay ưu tiên tập trung đầu tư thành phố thông minh của Chính phủ, việc tăng cường sử dụng các công nghệ 4.0 như AI, AR/VR, Blockchain trong các ngành công nghiệp. Bên cạnh đó là việc chú trọng đầu tư vào các giải pháp an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu, sự xuất hiện của mạng 5G...

Ngoài ra, Việt Nam đang có trên 62.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, đã hình thành được một số doanh nghiệp đầu tàu, tiên phong, có chiến lược phát triển 4.0, đồng thời cũng sở hữu hạ tầng viễn thông phủ rộng, dễ dàng chuyển đổi từ doanh nghiệp gia công sang doanh nghiệp công nghệ số; lực lượng gia công phần mềm xếp hạng cao trên thế giới, có khả năng phản ứng nhanh trước những thay đổi của thế giới. Theo bà Ngọc, đây là những điểm mạnh để phát triển ngành công nghiệp công nghệ số của Việt Nam.

Tâm điểm của ngành công nghiệp công nghệ số là lĩnh vực IoT (Internet vạn vật). Theo nhiều thống kê, thị trường IoT toàn cầu hiện có quy mô khoảng 1.660 tỷ USD. Còn Việt Nam, ước tính đến năm 2025, thị trường IoT có quy mô khoảng 3,4 tỷ USD. Năm lĩnh vực ứng dụng hiệu quả IoT hàng đầu gồm: sản xuất, sông nghiệp, năng lượng, tài chính, và y tế (theo Imaginovation Insider). 86% doanh nghiệp sản xuất nhận định sản xuất thông minh sẽ là yếu tố cạnh tranh chủ lực của doanh nghiệp sản xuất trong 5 năm tới.

Ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin – Truyền thông, Bộ Thông tin và Truyền thông.

Ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin – Truyền thông, Bộ Thông tin và Truyền thông.

“Chúng ta cần liên kết hệ sinh thái các công nghệ, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam với nhau để đưa các sản phẩm ra thị trường một cách phù hợp và rẻ nhất. Đó cũng là lợi thế khi chúng ta phát triển sản phẩm ra các quốc gia khác trong khu vực".

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn cho rằng phát triển sản xuất thông minh ở Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội. Cụ thể, Tập đoàn Ericsson dự báo vào năm 2025 khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ thu hút 2/3 nhà sản xuất toàn cầu, trong đó dẫn đầu thuộc về các ngành sản xuất thông minh. Hiện tại, 7 quốc gia trong khu vực gồm Úc, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Philippines, Singapore và Thái Lan đã triển khai sản xuất những thiết bị công nghệ thông minh 5G. Việt Nam cũng được Ericsson đánh giá là một điểm đến hấp dẫn với doanh thu từ công nghiệp 5G ước đạt 1,54 tỷ USD vào năm 2030.

Trong báo cáo công nghiệp hóa trong kỷ nguyên số của UNIDO, Việt Nam được xếp trong nhóm các nền kinh tế tiêu dùng công nghệ số, trong số 40 nền kinh tế chủ động theo đuổi Công nghiệp 4.0. Nhập khẩu thiết bị, công nghệ số của Việt Nam đứng thứ 15, xuất khẩu công nghệ đứng thứ 46 và hoạt động sáng chế đứng thứ 48 trong số 150 nền kinh tế.

Tổng giám đốc Công ty Cổ phần MISA, bà Đinh Thị Thúy, cho rằng trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cần phải làm chủ được những công nghệ mới như Cloud Computing, AI, Blockchain, Big Data… Theo bà, với lợi thế chịu khó và ham học hỏi, người Việt hoàn toàn có thể nắm bắt được những công nghệ này, nhất là khi không cần đầu tư lớn về tiền bạc, từ đó sản xuất ra những sản phẩm, giải pháp thông minh giải quyết bài toán mà khách hàng gặp phải.

CẦN NHIỀU CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ

Mặc dù được nhìn nhận đang có nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp công nghệ số nhưng theo các chuyên gia, lĩnh vực này của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, giá trị gia tăng của sản phẩm dịch vụ công nghệ số ở mức thấp, năng lực đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, phát triển, làm chủ các công nghệ mới còn hạn chế; chưa chú trọng phát triển chất lượng, thương hiệu sản phẩm dịch vụ; thiếu định hướng công nghệ và hệ sinh thái công nghệ; thiếu tài nguyên dữ liệu chất lượng và nền tảng chia sẻ, khai thác dữ liệu hiệu quả; đầu tư phát triển hỗ trợ công nghiệp công nghệ số chưa được quan tâm đúng mức.

Bên cạnh đó là sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp công nghệ số trong khu vực ASEAN, mất cân đối sản xuất do phụ thuộc vào thị trường quốc tế; nguy cơ bị thâu tóm khi phụ thuộc về đầu tư nước ngoài, hạn chế về khả năng khai phá tài nguyên dữ liệu, chưa làm chủ hoàn toàn các công nghệ khai thác dữ liệu và bị mất lợi thế về nhân công giá rẻ và chảy máu chất xám...

Nguồn: TBKTVN